Câu Hỏi Về Tin Lành

Câu hỏi 59: Đức Thánh Linh là ai?

Trả lời: Có nhiều quan niệm sai về sự nhận biết Đức Thánh Linh. Một vài quan điểm cho Đức Thánh Linh là một năng lực thần bí. Vài quan niệm khác hiểu Đức Thánh Linh như là quyền năng Đức Chúa Trời không liên quan đến con người hành động cho các tín đồ Đấng Christ. Kinh Thánh nói gì về sự nhận biết Đức Thánh Linh. Đơn giản thôi – Kinh Thánh nói Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời. Kinh Thánh cũng nói với chúng ta rằng Đức Thánh Linh là một thân vị có đầy đủ lý trí, tình cảm, và ý chí.
Thật ra Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời được Kinh Thánh cho thấy rõ ràng gồm có Công vụ các sứ đồ 5:3-4 Trong những câu Kinh Thánh này Phi-e-rơ đứng trước mặt A-na-nia hỏi tại sao ngươi nói dối Đức Thánh Linh và nói với ông ta rằng “Ngươi đã nói dối không phải với con người nhưng với Đức Chúa Trời”. Lời công bố này rõ ràng nói dối Đức Thánh Linh là nói dối Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng có thể biết Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời bởi vì Ngài có những thuộc tính của Đức Chúa Trời. Thí dụ Đức Thánh Linh toàn tại được chép trong Thi Thiên 139:7-8 “Tôi sẽ đi đâu xa thần Chúa? Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa? Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó, nếu tôi nằm dưới âm phủ, kìa Chúa cũng có ở đó.” Tiếp theo trong I Cô-rinh-tô 2:10 chúng ta thấy thuộc tính toàn tri: “Đức Chúa Trời đã dùng Đức Thánh Linh để bày tỏ những sự đó cho chúng ta, vì Đức Thánh Linh dò xét mọi sự, cả đến sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời nữa.”
Chúng ta có thể biết Đức Thánh Linh thật là một thân vị bởi vì Ngài có lý trí, tình cảm và ý chí. Đức Thánh Linh có suy nghĩ và thông biết (I Cô-rinh-tô 2:10) Đức Thánh Linh có thể bị làm buồn (Ê-phê-sô 4:30) Đức Thánh Linh cầu khẩn thế cho chúng ta (Rô-ma 8:26-27) Đức Thánh Linh thực hiện những quyết định phù hợp với ý chí của Ngài (I Cô-rinh-tô 12:7-11). Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời là ngôi thứ ba trong Ba ngôi. Vì là Đức Chúa Trời, Đức Thánh Linh có chức năng thật của Thần yên ủi và Thần lẽ thật mà Chúa Giê Xu hứa Ngài sẽ đến (Giăng 14:16,26 và Giăng 15:26).


Câu hỏi 60: Khi nào / Làm thế nào để chúng ta nhận được Thánh Linh?


Trả lời: Sứ đồ Phaolô dạy rõ ràng rằng chúng ta nhận được Thánh Linh ngay thời điểm chúng ta tin nhận Chúa Giê Su Christ là Cứu Chúa của chúng ta. I Cô-rinh-tô 12:13 tuyên bố: “Vì chưng chúng ta hoặc người Giu-đa, hoặc người Gờ-réc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, đều đã chịu phép báp-têm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân; và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa” Rô ma 8:9 cho chúng ta biết rằng nếu một người không có Thánh Linh, người ấy không thuộc về Đấng Christ: “Về phần anh em, nếu thật quả Thánh Linh Ðức Chúa Trời ở trong mình, thì không sống theo xác thịt đâu, nhưng theo Thánh Linh; song nếu ai không có Thánh Linh của Ðấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài.” Ê-phê-sô 1:13-14. Dạy chúng ta rằng Thánh Linh là dấu ấn của ơn cứu chuộc cho tất cả những ai tin rằng: “Ấy lại cũng trong Ngài mà anh em sau khi đã nghe đạo chân thật, là đạo Tin lành về sự cứu rỗi anh em, ấy là trong Ngài mà anh em đã tin và được ấn chứng bằng Ðức Thánh Linh là Ðấng Chúa đã hứa, Ðấng ấy làm của cầm về cơ nghiệp chúng ta, cho đến kỳ chuộc lấy những kẻ mà Ngài đã được để khen ngợi sự vinh hiển Ngài ”
Ba đoạn này làm rõ ràng rằng nhận Thánh Linh ngay thời điểm của sự cứu rỗi. Phao Lô không có thể nói rằng tất cả chúng ta được báp têm bởi một Thánh Linh và tất cả được một Thánh Linh để uống nếu không phải tất cả các tín hữu Cô-rinh-tô đã nhận lấy Thánh Linh. Rô ma 8:9 nói mạnh hơn rằng nếu một người không có Thánh Linh người ấy không thuộc về Đấng Christ. Vì vậy, việc nhận lấy Thánh Linh là một yếu tố xác định của việc nhận được sự cứu rỗi. Hơn nữa, Thánh Linh không thể đóng dấu “cứu rỗi” (Ê-phê-sô 1:13-14) nếu Ngài không được nhận vào thời khắc của sự cứu rỗi. Nhiều đoạn Kinh Thánh làm cho rõ ràng nhiều hơn rằng sự cứu rỗi của chúng ta được bảo đảm vào ngay thời điểm chúng ta nhận Chúa Giê Su Christ là Cứu Chúa chúng ta.
Đây là cuộc thảo luận gây tranh cãi vì các công tác của Thánh Linh thường bị lẫn lộn. Việc tiếp nhận / ở trong Thánh Linh xảy ra ngay thời điểm của sự cứu rỗi. Việc đầy dẫy Thánh Linh là một tiến trình liên tục trong đời sống Cơ Đốc nhân. Trong lúc chúng ta quả quyết báp têm Thánh Linh cũng xảy ra tại thời điểm của sự cứu rỗi, một số Cơ Đốc nhân không có. Điều này đôi khi những kết quả được báp têm Thánh Linh bị nhầm lẫn với “nhận được Thánh Linh” là một hành động đến sau sự cứu rỗi.
Tóm lại, làm thế nào để chúng ta nhận được Thánh Linh? Chúng ta nhận được Thánh Linh bằng cách đơn giản tiếp nhận Chúa Jesus Christ là Cứu Chúa của chúng ta (Giăng 3:5-16). Khi nào chúng ta nhận được Thánh Linh? Thánh Linh trở thành sở hữu lâu dài của chúng ta ngay thời điểm chúng ta tin Chúa.


Câu hỏi 61: Báp têm của Thánh Linh là gì?


Trả lời: Báp têm của Thánh Linh có thể được định nghĩa là công việc mà theo đó Thánh Linh của Đức Chúa Trời đặt người tín hữu vào sự liên hiệp với Đấng Christ và liên hiệp với các tín hữu khác trong thân thể của Đấng Christ tại thời điểm của sự cứu rỗi. I Cô-rinh-tô 12:12-13 là đoạn Kinh Thánh trọng tâm liên quan đến việc Báp têm của Thánh Linh: “Vì chưng chúng ta hoặc người Giu-đa, hoặc người Gờ-réc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, đều đã chịu phép báp-têm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân; và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa”(I Cô-rinh-tô 12:13). Trong khi Rô ma 6:1-4 không đề cập cụ thể là Thánh Linh của Đức Chúa Trời, nó mô tả vai trò của tín hữu trước Thiên Chúa bằng ngôn ngữ tương tự như thư tín Cô-rinh-tô thứ nhất “Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Chúng ta phải cứ ở trong tội lỗi, hầu cho ân điển được dư dật chăng? Chẳng hề như vậy! Chúng ta đã chết về tội lỗi, lẽ nào còn sống trong tội lỗi nữa?
Hay là, anh em chẳng biết rằng chúng ta thảy đều đã chịu phép báp-têm trong Ðức Chúa Jêsus Christ, tức là chịu phép báp-têm trong sự chết Ngài sao? Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép báp-têm trong sự chết Ngài, hầu cho Ðấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy. ”
Những sự kiện sau đây cần thiết để giúp củng cố sự hiểu biết của chúng ta về Báp têm của Thánh Linh: Trước tiên, I Cô-rinh-tô 12:13 nêu rõ tất cả đã được Báp têm, cũng như tất cả đều đã được uống chung Thánh Linh (ở trong Thánh Linh). Thứ hai, không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói với tín hữu được Báp têm với, hoặc bởi Thánh Linh, hoặc trong bất kỳ ý thức tìm kiếm lễ Báp têm của Thánh Linh. Điều này chỉ ra rằng tất cả các tín hữu đã có kinh nghiệm này. Thứ ba, Ê-phê-sô 4:5 dường như đề cập đến Báp têm Thánh Linh. Nếu đây là trường hợp, Báp têm Thánh Linh là thực tế cho mỗi tín hữu, cũng giống như “một đức tin” và “một Cha” vậy.


Tóm lại, Báp têm của Thánh Linh làm hai việc,

1) Nối kết chúng ta với thân thể của Christ và

2) Hiện thực hoá việc chúng ta cùng chịu đóng đinh với Đấng Christ. Cùng chung trong cơ thể của Ngài có nghĩa là chúng ta đang sống với Ngài cho cuộc sống mới (Rô ma 6:4). Sau đó chúng ta luyện tập những ân tứ thuộc linh để giữ cho hoạt động thân thể đúng với chức năng như đã nêu trong nội dung của I Cô-rinh-tô 12:13. Kinh nghiệm một Báp têm Thánh Linh phục vụ như nền tảng cho việc giữ gìn sự hiệp nhất của Hội Thánh, như trong nội dung thư Ê-phê-sô 4:5. Được liên kết với Đấng Christ trong việc đồng chết, đồng chôn và đồng sống lại qua Báp têm thiết lập nền tảng cho việc chúng ta tách ra khỏi quyền lực của tội lỗi bên trong và bước đi trong cuộc sống mới (Rô ma 6:1-10; Cô-lô-se 2:12).


Câu hỏi 62: Những lời nói phạm đến Thánh Linh là gì?


Trả lời: Khái niệm “Nói phạm đến Thánh Linh” được đề cập trong Mác 3:22-30 và Ma-thi-ơ 12:22-32. Thuật ngữ phạm thượng nói chung được định nghĩa là “Công khai xúc phạm bất kính” Thuật ngữ này có thể được áp dụng cho những tội lỗi như rủa sả Thiên Chúa hoặc cố ý làm giảm giá trị những điều liên quan đến Thiên Chúa. Nó cũng là thuộc tính một số điều ác đối nghịch Thiên Chúa, hoặc từ chối một số điều tốt của Ngài mà đáng lẽ chúng ta nên tượng trưng cho Ngài. Tuy nhiên trường hợp nói phạm thượng này là một điều cụ thể, gọi là “Nói phạm đến Thánh Linh” trong Ma-thi-ơ 12:31. Trong Ma-thi-ơ 12:31-32, Những người Pha-ri-si có bằng chứng không thể bác bỏ về việc Chúa Giê Su đã làm phép lạ bằng quyền năng của Thánh Linh, thay vì tuyên bố như vậy họ nói rằng Chúa đã bị nhập bởi loài quỷ “Ba-anh-xê-bun” (Ma-thi-ơ 12:24). Bây giờ hãy chú ý lời Chúa Giê Su nói cách cụ thể trong Mác 3:30 rằng đó là tội “Nói phạm đến Thánh Linh.”
Lời phạm thượng này làm cho mọi người rủa sả Chúa Giê Su Christ bị quỉ ám thay vì đầy dẫy Thánh Linh. Kết quả của tác động đặc biệt việc nói phạm đến Thánh Linh không thể giống hệt ngày nay. Chúa Giê Su Christ không ở trên thế gian-Ngài ngồi bên tay hữu của Thiên Chúa. Không ai có thể làm chứng Chúa Giê Su Christ làm một phép lạ và sau đó tượng trưng cho quyền lực Satan thay vì cho Thánh Linh. Ví dụ gần nhất ngày hôm nay là các phép lạ góp phần làm cuộc sống thay đổi mọi người để cứu chuộc họ khỏi quyền lực của Satan hơn thế nữa là những hiệu quả của Thánh Linh cư trú trong lòng.
Nói phạm đến Thánh Linh ngày nay, giống như tội lỗi không thể bỏ qua, là tình trạng của thiếu lòng tin liên tục. Không có sự tha thứ cho một người mà chết trong sự vô tín. Liên tục từ chối sự nhắc nhở của Thánh Linh để tin tưởng vào Chúa Giê Su Christ là việc xúc phạm không thể tha thứ chống lại Ngài. Hãy nhớ điều đã chép trong Giăng 3:16: “Vì Thiên Chúa yêu thương nhân thế đến nỗi Ngài đã ban cho con một của Ngài, hễ ai tin con ấy sẽ không bị hư mất mà được sự sống đời đời”. Xa thêm trong cùng chương này là câu “Hễ ai tin Con thì có sự sống đời đời, nhưng bất cứ ai từ chối Con sẽ không thấy sự sống, vì cơn giận của Chúa vẫn còn trên người ấy “(Giăng 3:36). Điều kiện duy nhất là “hễ ai tin Ngài” sẽ được cứu, còn lại những người không được sự tha thứ là những kẻ “từ chối con Ngài.”


Câu hỏi 63: Làm thế nào tôi được đầy dẫy Thánh Linh?


Trả lời: Câu Kinh Thánh quan trọng để hiểu biết về sự đầy dẫy Thánh Linh là Giăng 14:16 nơi mà Chúa Giê Su đã hứa Thánh Linh sẽ ngự trị trong những tín hữu và rằng việc ngự trị này là thường trú. Điều quan trọng là sự phân biệt giữa ngự trị khác với đầy dẫy Thánh Linh. Sự ngự trị thường trú của Thánh Linh dành cho tất cả các tín hữu không riêng cho vài tín hữu được lựa chọn. Có một số câu tham khảo trong Kinh Thánh hổ trợ cho kết luận này. Trước nhất, Thánh Linh là một ân tứ cho tất cả các tín hữu trong Chúa Giê Su mà không có ngoại lệ, và không có điều kiện được đặt trên ân tứ này, ngoại trừ niềm tin vào Đấng Christ (Giăng 7:37-39). Thứ hai, Thánh Linh được ban cho tại thời điểm của sự cứu rỗi (Ê-phê-sô 1:13). Ga-la-ti 3:2 nhấn mạnh cùng chân lý này, nói rằng ấn chứng và cư trú của Thánh Linh diễn ra tại thời điểm tin nhận. Thứ ba, Thánh Linh cư trú trong các tín hữu thường xuyên. Thánh Linh được ban cho các tín hữu như là một sự giáng xuống, hoặc chứng cớ của vinh hiển tương lai của họ trong Đấng Christ (II Cô-rinh-tô 1:22; Ê-phê-sô 4:30).
Điều này tương phản với đầy dẫy Thánh Linh được biết trong Ê-phê-sô 5:18. Chúng ta nên nhường chỗ hoàn toàn cho Thánh Linh mà Ngài có thể chiếm hữu trọn vẹn, trong ý thức đó, đầy dẫy chúng ta. Rô ma 8:9 và Ê-phê-sô 1:13-14 cho thấy rằng Ngài cư trú trong từng tín hữu, Ngài cũng có thể bị làm buồn (Ê-phê-sô 4:30), và những hoạt động của Ngài trong vòng chúng ta có thể bị dập tắt ( I Tê-sa-lô-ni-ca 5:19). Khi chúng ta cho phép điều này xảy ra, chúng ta không có kinh nghiệm sung mãn của công việc Thánh Linh và quyền năng của Ngài trong và qua chúng ta. Để được đầy dẫy Thánh Linh hàm ý để Thánh Linh tự do chiếm hữu tất cả cuộc sống của chúng ta, hướng dẫn và kiểm soát chúng ta. Để rồi quyền năng của Ngài sử dụng qua đời sống chúng ta đến nỗi những gì chúng ta làm là kết quả cho Chúa. Việc đầy dẫy Thánh Linh không chỉ áp dụng cho hành vi hướng ngoại, nó cũng áp dụng cho những suy nghĩ tận đáy lòng và động cơ của những việc làm của chúng ta. Thi Thiên 19:14 nói, ” Cầu xin những lời từ miệng tôi và những suy ngẫm của lòng tôi được đẹp ý Ngài, Lạy Chúa là hòn đá tôi và Đấng cứu chuộc tôi.”
Tội lỗi là những gì ngăn trở việc đầy dẫy Thánh Linh, và vâng lời Chúa là cách duy trì đầy dẫy Thánh Linh. Ê-phê-sô 5:18 truyền lệnh rằng chúng ta phải đầy dẫy Thánh Linh, tuy nhiên, không phải là cầu nguyện cho đầy dẫy Thánh Linh mà phải đạt được sự đổ đầy. Sự vâng lời của chúng ta theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời là cách duy nhất cho phép Thánh Linh tự do làm việc trong lòng chúng ta. Bởi vì chúng ta vẫn còn bị ảnh hưởng tội lỗi nên không thể được đổ đầy Thánh Linh tất cả thời gian. Khi chúng ta phạm tội ngay lập tức chúng ta phải xưng ra với Đức Chúa Trời và làm mới lại cam kết của chúng ta để được đầy dẫy Thánh Linh và để Thánh Linh hướng dẫn.


Câu hỏi 64: Làm thế nào để tôi biết ân tứ thuộc linh của tôi?


Trả lời: Không có công thức kỳ diệu hay thử nghiệm dứt khoát nào có thể cho chúng ta biết chính xác những gì là ân tứ thuộc linh của chúng ta. Thánh Linh phân phát các ân tứ khi Ngài quyết định ( I Cô-rinh-tô 12:7-11). Một vấn đề chung cho các tín hữu là những cám dỗ để được nâng cao ân tứ thuộc linh của chúng ta bằng cách chỉ tìm kiếm khu vực mà chúng ta cảm thấy chúng ta đã có ơn để phục vụ Thiên Chúa. Đó không phải là cách làm việc của những người có ân tứ thuộc linh. Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta vâng lời phục vụ Ngài trong tất cả mọi việc. Ngài sẽ trang bị cho chúng ta bất cứ nhiều ân tứ hay một ân tứ chúng ta cần thực hiện nhiệm vụ mà Ngài đã kêu gọi chúng ta.
Xác định những ân tứ thuộc linh chúng ta có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Những trắc nghiệm ân tứ thuộc linh hay những bản kiểm kê trong khi không thể hoàn toàn dựa theo, có thể xác định giúp chúng ta hiểu nơi ân tứ thuộc linh của chúng ta có thể. Sự xác nhận từ những người khác cũng cho ánh sáng về những ân tứ thuộc linh của chúng ta. Người khác nhìn thấy chúng ta phục vụ Chúa thường có thể xác định ân tứ thuộc linh mà chúng ta có thể có như vậy hoặc không nhận ra. Cầu nguyện cũng quan trọng. Một người biết chính xác cách nào chúng ta nhận ân tứ thuộc linh được ban cho chính chúng ta- Chúa Thánh Linh. Chúng ta có thể cầu xin Đức Chúa Trời chỉ cho chúng ta làm cách nào chúng ta được ân tứ sử dụng tốt hơn các ân tứ thuộc linh của chúng ta cho vinh hiển của Ngài.
Vâng, Đức Chúa Trời kêu gọi một số giáo viên và cho họ ân tứ giảng dạy. Thiên Chúa kêu gọi một số công chức và ban phước cho họ với ân tứ cứu giúp. Tuy nhiên, biết cụ thể ân tứ thuộc linh của chúng ta không cho phép chúng ta từ chối phục vụ Chúa trong các lảnh vực ngoài ân tứ của chúng ta. Có lợi khi biết những ân tứ thuộc linh mà Đức Chúa Trời đã cho chúng ta? Tất nhiên có lợi. Có sai khi tập trung quá nhiều vào những ân tứ thuộc linh mà chúng ta bỏ lỡ cơ hội khác để phục vụ Đức Chúa Trời? Có. Nếu chúng ta đã hiến dâng đời sống để được Đức Chúa Trời sử dụng, Ngài sẽ trang bị cho chúng ta những ân tứ thuộc linh chúng ta cần.


Câu hỏi 65: Có phải những ân tứ quyền năng của Thánh Linh cho ngày hôm nay?


Trả lời: Đầu tiên, vấn đề quan trọng nhận biết rằng đây không phải là câu hỏi Thiên Chúa còn thực hiện phép lạ ngày hôm nay nữa hay không. Thật là khờ dại và không liên quan gì trong Kinh Thánh để công bố Đức Chúa Trời không chữa bệnh cho loài người, nói chuyện với loài người, hay thực hiện các dấu kỳ và phép lạ ngày nay. Câu hỏi đặt ra là liệu những ân tứ quyền năng của Thánh Linh chủ yếu được mô tả trong I Cô-rinh-tô 12-14, vẫn còn đang hoạt động trong Hội Thánh ngày hôm nay không. Đây cũng không phải là câu hỏi Thánh Linh có thể cho ai đó ân tứ quyền năng. Câu hỏi đặt ra là liệu Thánh Linh vẫn còn ban phát ân tứ quyền năng ngày nay không. Trên hết, chúng ta hoàn toàn công nhận rằng Thánh Linh ban phát ân tứ quyền năng tự do tuỳ theo ý muốn của Ngài (I Cô-rinh-tô 12:7-11).
Trong sách Công vụ và các Thư tín, phần lớn các phép lạ được thực hiện bởi các môn đồ và những người cộng tác thân cận của họ. Phao Lô cho chúng ta lý do tại sao: “Các bằng cớ về chức sứ đồ tôi đã tỏ ra trong anh em bởi sự nhịn nhục mọi đàng, bởi các dấu lạ, các sự khác thường, và các phép lạ.” ( II Cô-rinh-tô 12:12). Nếu mỗi tín hữu của Đấng Christ được trang bị khả năng để thực hiện các dấu kỳ phép lạ, sau đó các dấu kỳ phép lạ có thể không còn là cách xác định những dấu hiệu của một môn đồ. Công vụ các sứ đồ 2:22 cho chúng ta biết Chúa Giê Su đã được “công nhận” bởi “những dấu kỳ phép lạ.” Tương tự như vậy các môn đồ đã được “đánh dấu” như là những sứ giả chân chính từ Đức Chúa Trời bởi các phép lạ họ đã thực hiện. Công vụ 14:3 diễn tả sứ điệp phúc âm được “xác nhận” bởi các phép lạ Phao Lô và Ba-na-ba thực hiện.
I Cô-rinh-tô chương 12-14 chủ yếu đề cập đến những ân tứ quyền năng của Thánh Linh. Dường như từ nội dung những Cơ Đốc nhân không nổi trội đôi lúc được ban cho ân tứ quyền năng (12:8-10, 28-30). Chúng ta không nói làm thế nào điều này có ở nơi chốn công cộng. Từ những gì chúng ta đã nghiên cứu ở trên, mà các môn đồ đã được “đánh dấu” bởi các dấu kỳ phép lạ, nó dường như là ân tứ quyền năng được ban cho các Cơ Đốc nhân không nổi trội là ngoại lệ, không theo quy luật. Ngoài các môn đồ và những người cộng tác thân cận của họ, không có chỗ nào trong Tân Ước mô tả cụ thể những cá nhân thực hiện các ân tứ quyền năng của Thánh Linh.
Nó cũng quan trọng nhận ra rằng Hội Thánh đầu tiên đã không có bản Kinh Thánh hoàn chỉnh như chúng ta làm hôm nay (II Ti-mô-thê 3:16-17). Vì vậy, những ân tứ tiên tri, thông sáng, khôn ngoan, v.v… là điều cần thiết để các Cơ Đốc nhân đầu tiên biết những gì Thiên Chúa muốn họ làm. Các ân tứ tiên tri làm cho các tín hữu có thể liên lạc với chân lý và sự khải thị mới của Thiên Chúa. Bây giờ sự khải thị đó của Thiên Chúa đã hoàn tất trong Kinh Thánh, các ân tứ khải thị không còn cần thiết, ít nhất là không giống khả năng như họ được trong Tân Ước.
Thiên Chúa chữa bệnh kỳ diệu cho con người mỗi ngày. Thiên Chúa vẫn còn nói với chúng ta ngày nay, cho dù bằng âm thanh giọng nói, ý nghĩ trong tâm trí của chúng ta, hoặc qua các cảm xúc và tình cảm. Thiên Chúa vẫn còn làm những phép lạ diệu kỳ, các dấu hiệu, và những suy tưởng và đôi khi thực hiện các phép lạ qua một Cơ Đốc nhân. Tuy nhiên, những việc này không nhất thiết phải là ân tứ quyền năng của Thánh Linh. Mục đích chính của các ân tứ quyền năng để chứng minh rằng các sách phúc âm là đúng sự thật và rằng các môn đồ là những sứ giả chân chính của Thiên Chúa. Kinh Thánh không nói ngay rằng các ân tứ quyền năng đã dừng lại, nhưng nó dựa trên nền tảng về những mục đích tại sao chúng không còn có thể xảy ra ở mức độ tương tự như chúng đã được ghi chép trong Tân Ước.


Câu hỏi 66: Ân tứ nói tiếng lạ là gì? Có phải ân tứ nói tiếng lạ dành cho ngày nay?


Trả lời: Sự kiện nói tiếng lạ đầu tiên xảy ra vào ngày lễ Ngũ tuần trong Công vụ 2:1-4. Các sứ đồ đi ra và chia sẻ phúc âm với những đám đông, nói với họ bằng ngôn ngữ của họ, “Cả người Giu-đa hoặc người mới theo đạo Giu-đa, người Cơ-rết và A-rạp nữa, chúng ta đều nghe họ lấy tiếng chúng ta mà nói những sự cao trọng của Ðức Chúa Trời.” Công vụ 2:11. Từ ngữ Hi lạp dịch từ “cái lưỡi” với nghĩa đen là “ngôn ngữ”. Do đó ân tứ của lưỡi là tiếng nói của một người bằng ngôn ngữ mà người đó không biết để truyền đạo cho người biết ngôn ngữ đó. Trong I Cô-rinh-tô 12-14 Phao Lô thảo luận về ân tứ kỳ lạ, ông đã phê bình: “Hỡi anh em, ví bằng tôi đến cùng anh em, nói các thứ tiếng lạ, mà lời nói tôi chẳng tỏ sự kín nhiệm, chẳng có sự thông biết, chẳng có lời tiên tri, chẳng có sự khuyên dạy, thì ích gì đến anh em?” I Cô-rinh-tô 14:6 Đối với sứ đồ Phao Lô và tính hòa hợp của lưỡi được mô tả trong Công vụ các sứ đồ, nói tiếng lạ được đánh giá là một ân tứ nghe sứ điệp của Đức Chúa Trời bằng ngôn ngữ của người ấy. Ngược lại nó không có ích lợi gì cho người khác trừ khi nó được dịch ra.
Một người với ân tứ thông dịch tiếng lạ (I Cô-rinh-tô 12:30) có thể hiểu người đang nói tiếng lạ mặc dầu người ấy không hề biết về ngôn ngữ đó. Người thông dịch tiếng lạ truyền đạt thông điệp của người nói tiếng lạ để cho người khác hiểu “Bởi đó, kẻ nói tiếng lạ, hãy cầu nguyện để được thông giải tiếng ấy.” I Cô-rinh-tô 14:13 Kết luận của Phao Lô là việc không nói tiếng lạ thì có quyền hơn “ Nhưng thà tôi lấy năm lời bằng trí khôn mình mà rao giảng trong Hội Thánh để được dạy bảo kẻ khác, hơn là lấy một vạn lời bằng tiếng lạ.” I Cô-rinh-tô 14:19.
Có phải ân tứ nói tiếng lạ dành cho ngày nay? I Cô-rinh-tô 13:8 chú ý rằng ân tứ nói tiếng lạ ngừng lại. Mặc dầu đến chỗ trọn vẹn trong I Cô-rinh-tô 13:10 mới dừng hẳn. Một vài điểm khác nhau trong cách nói tiên tri và kiến thức nói tiếng lạ như là bằng chứng ân tứ nói tiếng lạ phải dừng lại trước khi đạt đến sự trọn vẹn. Có thể trong nội dung không được rõ ràng lắm. Cũng có vài điểm như trong Ê-Sai 28:11 và Giô Ên 2:28-29 làm bằng chứng cho việc nói tiếng lạ là dấu hiệu của sự phán xét của Đức Chúa Trời gần đến. I Cô-rinh-tô 14:22 cho biết nói tiếng lạ là dấu hiệu cho người không tin. Đối với quan điểm này ân tứ nói tiếng lạ là lời cành cáo của Đức Chúa Trời dành cho người Do Thái sự phán xét sắp đến với họ vì đã từ bỏ Chúa Giê Xu Christ là Đấng Cứu thế. Vì vậy khi Đức Chúa Trời thực hiện việc phán xét với dân Y-sơ-ra-ên (hủy phá thành Giê-ru-sa-lem bời người La Mã vào năm 70 S.C) ân tứ nói tiếng lạ không còn phục vụ mục đích như đã định. Trong lúc quan điểm này có thể, sự ứng nghiệm nói tiếng lạ ban đầu không cần thiết phải dừng lại. Kinh Thánh không quả quyết kết luận rằng ân tứ nói tiếng lạ đã chấm dứt.
Nếu ân tứ nói tiếng lạ trong Hội Thánh ngày nay, cũng phải giống với những gì Kinh Thánh đã chép. Nó phải là ngôn ngữ thực và dễ hiểu (I Cô-rinh-tô 14:10). Nó phải dùng cho việc giao thông giữa con người với Đức Chúa Trời bằng một ngôn ngữ khác (Công vụ 2:6-12) Nó cũng phù hợp với mệnh lệnh của Đức Chúa Trời phán xuyên qua sứ đồ Phao Lô “ Nếu ai nói tiếng lạ thì hai hoặc ba người nói, cùng lúc ấy phải có người thông dịch. Nếu không có người thông dịch, người nói phải yên lặng và tự mình nói chuyện với Chúa (I Cô-rinh-tô 14:27-28) Nó cũng được xem xét trong I Cô-rinh-tô 14:33 “ Vì Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa của sự lọan lạc bèn là Chúa của sự hòa bình như trong tất cả các Hội Thánh.”
Đức Chúa Trời rõ ràng dứt khóat trong việc ban ân tứ nói tiếng lạ là để giúp cho người ấy có thể liên lạc với ngôn ngữ của người khác. Đức Thánh Linh cầm quyền trong việc ban phát những ân tứ thuộc linh.(I Cô-rinh-tô 12:11) Thử tưởng tượng có bao nhiêu nhà truyền giáo đi ra nếu không đến trường học ngôn ngữ để ngay tức khắc nói chuyện bằng ngôn ngữ của họ. Tuy nhiên Đức Chúa Trời đã không làm như thế. Nói tiếng lạ dường như không diễn ra ngày nay bằng hình thức đã xảy ra trong thời Tân Ước bất chấp sự thật nó hữu ích ngay tức thì. Phần lớn tín hữu công bố việc thực tập nói tiếng lạ thì không giống với những điều Kinh Thánh ghi chép bên trên. Những sự thật này đưa đến kết luận ân tứ nói tiếng lạ đã chấm dứt hay ít nữa là việc hiếm có trong kế họach của Đức Chúa Trời dành cho Hội Thánh ngày nay.
Những tín hữu tin vào ân tứ nói tiếng lạ như là “ngôn ngữ cầu nguyện” để tự soi sáng họ lấy quan điểm này từ trong I Cô-rinh-tô 14:4 và 14:28 “Kẻ nói tiếng lạ tự gây dựng lấy mình, song kẻ nói tiên tri gây dựng cho Hội Thánh.” Xuyên suốt qua I Cô-rinh-tô 14 sứ đồ Phao Lô nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thông dịch tiếng lạ. Xin xem đọan 14:5-12, những gì Phao Lô nói trong câu 4 được hiểu “ Nếu bạn nói tiếng lạ mà không có người thông dịch thì chẳng được gì chỉ dạy cho chính mình, làm cho chính mình có sự thuộc linh hơn người khác. Nếu bạn nói tiếng lạ có người thông dịch bạn sẽ dạy dỗ cho nhiều người.” Không có chỗ nào trong Tân Ước hướng dẫn cụ thể về việc “Cầu nguyện bằng tiếng lạ”. Không có chỗ nào trong Tân Ước nói đến mục đích cụ thể của việc “Cầu nguyện bằng tiếng lạ” hay diễn tả hình ảnh một người “Cầu nguyện bằng tiếng lạ.” Hơn nữa nếu “Cầu nguyện bằng tiếng lạ” là để tự soi sáng cho mình thì điều đó không đúng với người nói tiếng lạ là người được ban cho ân tứ nói tiếng lạ mà lại không tự dạy dỗ chính mình sao? I Cô-rinh-tô 12:29-30 chỉ ra rõ ràng không phải bất cứ ai cũng đều có ân tứ nói tiếng lạ.